CMT Level 1 2024_Chương 7: Moving Averages
- 20/11/2024
- 0 Bình luận
Các tuyên bố về mục tiêu học tập
- Mô tả nguyên tắc cơ bản về các đường trung bình động
- Giải thích cách để tính toán đường trung bình động giản đơn, đường trung bình động có trọng số theo tuyến tính và đường trung bình động được làm mịn theo hàm số mũ
- Nhận diện xu hướng và các tín hiệu bằng đường trung bình động
- Mô tả và giải thích về chỉ báo DMI (Directional Movement Indicators)
- Liệt kê các chỉ báo dải, kênh, vỏ bọc phổ biến và các đặc điểm của chúng
Một trong những phương pháp thành công nhất để xác định và tìm kiếm lợi nhuận từ xu hướng đó là sử dụng đường trung bình động. Một đường trung bình động là trung bình trong một khoảng thời gian cố định, thường là của giá cả, được tính toán cho mỗi khoảng thời gian liên tiếp trên biểu đồ. Kết quả là, khi được vẽ trên một biểu đồ giá thì sẽ hiển thị một đường được làm mịn đại diện cho các giá trung bình liên tiếp. Đường trung bình giúp làm giảm bớt những ảnh hưởng từ các biến động ngắn hạn. Có nhiều nhà quản lý đầu tư kỹ thuật thành công nhất sử dụng đường trung bình động để xác định khi nào xu hướng đang đổi hướng. Đường trung bình động đặc biệt hữu ích trong thị trường mà có khuynh hướng hình thành xu hướng.
Đường trung bình động đã được các học giả kiểm tra và cho thấy chúng có ý nghĩa thống kê. Brock, Lakonishok và LeBaron (1992) là những người đầu tiên đã chứng minh và sử dụng các phương pháp thống kê hiện đại giảm sai lệch, rằng các tín hiệu giao thoa đường trung bình động có giá trị nội tại. Cũng như đa số các nghiên cứu học thuật, kết quả của Brock, Lakonishok và LeBaron đã có phần gây tranh cãi. Mặc dù thậm chí có một số người đã chỉ trích nghiên cứu của họ nhưng cũng có các nhà nghiên cứu khác đã xác thực cho kết quả của họ.
(Tình cờ, nghiên cứu của Brock, Lakonishok và LeBaron cung cấp một trong những lập luận hữu ích hơn chống lại thuyết thị trường hiệu quả và bước đi ngẫu nhiên).
Mặc dù Brock, Lakonishok và LeBaron đã tập trung nghiên cứu về chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones, các nghiên cứu sau này đã sử dụng hệ thống giao cắt đường trung bình động cho dữ liệu thị trường các nước khác và thường có kết quả tích cực tương tự. Detry và Gregoire (2001) đã cung cấp một bản tóm tắt về những nghiên cứu này.
Rõ ràng có điều gì đó về đường trung bình động. Tất nhiên, các nhà giao dịch và các nhà đầu tư xu hướng đã biết tất cả những điều này từ nhiều năm, nhưng các nhà phân tích kỹ thuật hiện giờ mới cảm thấy thoải mới hơn về những điều mà họ đã làm. Trong chương này, chúng ta sẽ thảo luận về các phương pháp đường trung bình động và các chiến lược mà các nhà phân tích kỹ thuật đã sử dụng, cũng như giới thiệu về một số biến thể của đường trung bình động như là Bollinger Bands, đường bao (evelopes) và chỉ báo DMI (Directional Movement Indicators).
Đường trung bình động là gì?
Đường trung bình động là một trong những công cụ lâu đời nhất được sử dụng bởi các nhà phân tích kỹ thuật. Những biến động hàng ngày trong giá cả cổ phiếu, giá cả hàng hóa và tỷ giá hối đoái có thể rất lớn. Đường trung bình động làm giảm bớt những biến động này - làm giảm bớt đi sự nhấn mạnh nhưng đôi khi lại làm sai lệch, méo mó đi những biến động. Các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng đường trung bình động để làm mượt dữ liệu bất thường, làm cho việc xem xu hướng cơ sở thực trở nên dễ dàng hơn.
Lý do chính mà các đường trung bình động được sử dụng là để làm mượt các biến động ngắn hơn và tập trung vào xu hướng phù hợp với khung thời gian của nhà đầu tư. Về bản chất đường trung bình động chỉ là một con số thể hiện giá trị ròng của những con số nhất định trong quá khứ. Ví dụ như, đường trung bình động của 20 ngày là một con số thể hiện toàn bộ giá cả của 20 ngày trước. Như vậy, nó lọc ra mỗi một mức giá trong suốt 20 ngày trước và nói cho chúng ta biết nhóm 20 ngày đang hành xử như thế nào hơn là từng phần riêng lẻ của nó.
Đường trung bình động giản đơn được tính toán bằng cách nào?
Bảng 7.1 chứa các giá đóng cửa của cổ phiếu WMT (Walmart) từ ngày 18/11/2014 tới ngày 26/02/2015. Đa số đường trung bình động về giá được dựa vào giá đóng cửa, nhưng chúng cũng có thể được tính toán với giá cao nhất, thấp nhất, giá trung bình hàng ngày hoặc bất kỳ giá trị nào khác miễn là loại giá duy trì nhất quán trong suốt quá trình tính toán. Chúng tôi sử dụng giá đóng cửa.

.png)
.png)
.png)
Loại đường trung bình động được sử dụng phổ biến nhất đó là đường trung bình động giản đơn (Simple Moving Average - SMA), đôi khi được đề cập đến như là một đường trung bình động số học. Một SMA được xây dựng bằng cách cộng một tập hợp dữ liệu và sau đó chia cho số lượng dữ liệu được quan sát trong khoảng thời gian đang được xem xét. Ví dụ như, nhìn vào đường SMA10 ngày trong bảng 7.1. Chúng ta bắt đầu bằng cách cộng các giá đóng cửa của 10 ngày đầu tiên. Sau đó chúng ta lấy tổng số này chia cho 10 để mang đến cho chúng ta giá trung bình của khoảng thời gian 10 ngày này. Do đó, vào ngày thứ 10, đường trung bình động 10 ngày sẽ là giá đóng cửa trung bình của cổ phiếu WMT từ ngày 1 tới ngày 10, hay là $85.35.
Vào ngày 11, trung bình động thay đổi. Để tính trung bình động cho ngày 11, chúng ta tính giá trung bình từ ngày 2 tới ngày 11. Nói cách khác, giá đóng cửa của ngày 1 đã được loại khỏi tập dữ liệu, trong khi giá đóng cửa của ngày 11 được thêm vào. Công thức để tính đường trung bình động 10 ngày là như sau:

Tất nhiên chúng ta có thể xây dựng các đường trung bình động với các độ dài khác nhau. Trong bảng 7.1, bạn cũng có thể nhìn thấy một đường trung bình động 26 ngày. Đây là đường SMA được tính toán đơn giản bằng cách cộng 26 mức giá đóng cửa gần nhất lại với nhau và chia cho 26.
Mặc dù một đường trung bình động có thể làm mượt giá cả qua bất kỳ khoảng thời gian tùy chọn nào nhưng một số đường trung bình động hàng ngày phổ biến hơn đó là các khoảng thời gian 200, 60, 50, 30, 20 và 10 ngày. Những khoảng thời gian này khá tùy ý và được chọn trước những ngày có máy tính khi mà sự tính toán được thực hiện bằng tay hoặc bằng máy tính cộng tay quay. Ví dụ như, Gartley (1935) đã sử dụng đường trung bình động 200 ngày trong công việc của ông ấy. Đơn giản chỉ là những số chia hết cho 10 là dễ dàng hơn để tính toán. Cũng như các đường trung bình động 10 ngày, 20 ngày và 60 ngày tương ứng tóm tắt khoảng 2 tuần, 1 tháng và 3 tháng (1 quý tài chính) của dữ liệu giao dịch.
Một khi đã được tính toán, các đường trung bình động được vẽ trên biểu đồ giá. Hình 7.1 hiển thị một biểu đồ của đường trung bình động giản đơn 26 ngày cho cổ phiếu WMT. Từ đầu tháng 11 tới cuối tháng Giêng, đường trung bình động là một đường cong dốc lên, cho thấy một xu hướng tăng trong giá cổ phiếu Walmart. Những biến động hàng ngày được làm mượt bằng đường trung bình động để cho nhà phân tích có thể nhìn thấy xu hướng cơ sở mà không bị phân tâm bởi những chuyển động nhỏ hàng ngày.

Một đường trung bình động đang tăng cho thấy một xu hướng tăng, còn một đường trung bình động đang giảm cho thấy một xu hướng giảm. Mặc dù đường trung bình động giúp chúng ta phân biệt một xu hướng nhưng nó làm điều đó sau khi xu hướng đã bắt đầu. Do đó, đường trung bình động là một chỉ báo chậm. Theo định nghĩa, đường trung bình động là một chỉ báo mà được dựa vào giá quá khứ. Ví dụ như hình 7.1 hiển thị một xu hướng trong của giá cổ phiếu WMT được bắt đầu vào cuối tháng 10. Tuy nhiên, dịch chuyển đi lên trong SMA đã không xảy ra cho tới gần đầu tháng 11. Nên nhớ rằng dựa theo các nguyên tắc của phân tích kỹ thuật, chúng ta muốn giao dịch theo xu hướng. Sử dụng một đường trung bình động sẽ luôn mang tới cho chúng ta một độ trễ trong việc ra hiệu một sự thay đổi trong xu hướng.
Chiều dài của đường trung bình động
Bởi vì đường trung bình động có thể được tính toán cho các khoảng thời gian khác nhau, vậy thì chiều dài nào là tốt nhất để sử dụng? Tất nhiên, một khoảng thời gian dài hơn sẽ chứa nhiều dữ liệu được quan sát hơn và do đó, chưa nhiều thông tin hơn. Bằng cách chứa nhiều dữ liệu hơn trong việc tính toán về đường trung bình động, dữ liệu của mỗi ngày trở nên tương đối ít quan trọng hơn trong phép tính. Do đó, một sự thay đổi lớn trong giá trị của một ngày sẽ không có ảnh hưởng lớn tới đường trung bình động dài hơn. Điều này có thể là một lợi thế nếu như sự thay đổi lớn này là một giá trị ngoại lệ bất thường trong dữ liệu của chỉ một ngày.
Tuy nhiên, nếu như sự thay đổi lớn này thể hiện sự khởi đầu của một thay đổi đáng kể trong xu hướng thì nó mất nhiều thời gian hơn để sự thay đổi trong xu hướng cơ sở được nhận ra. Do đó, đường trung bình động dài hơn sẽ chậm hơn để nhận ra sự thay đổi của xu hướng nhưng lại ít có khả năng báo hiệu sai sự thay đổi của một xu hướng do một tín hiệu bất thường trong dữ liệu ngắn hạn.
Ví dụ như hình 7.2 hiển thị cả đường SMA13 ngày và SMA26 ngày được vẽ cho cổ phiếu WMT. Chú ý cách đường trung bình động 13 ngày, ngắn hơn, hiển thị nhiều biến động hơn so với đường trung bình động 26, dài hơn. Đường trung bình động 26 được cho là đường trung bình động chậm hơn. Mặc dù nó cung cấp mượt hơn, đường trung bình động 26 ngày cũng chậm hơn tại điểm báo hiệu sự thay đổi xu của xu hướng cơ sở. Chú ý vào các đáy của đường SMA13 ngày vào cuối tháng 10/đầu tháng 11, báo hiệu một sự thay đổi trong xu hướng, sau một tuần, đường SMA 26 ngày, chậm hơn, vẫn phẳng nhưng dần dần tăng lên. Do đó, đường SMA26 ngày là chậm hơn để báo hiệu về một sự thay đổi trong xu hướng.
.png)
Vì việc phát hiện ra sự đảo ngược xu hướng sớm nhất có thể sẽ giúp tối đa hóa được lợi nhuận giao dịch, đường SMA13 ngày có thể ban đầu dường như mang tới thông tin vượt trội hơn, tuy nhiên, nên nhớ rằng đường SMA nhanh hơn sẽ có bất lợi hơn về việc có khả năng mang tới một tín hiệu sai về sự thay đổi hướng của xu hướng. Ví dụ như, nhìn vào đầu tháng 12 trong hình 7.2. Đường SMA13 ngày đã phẳng ra, báo hiệu một sự kết thúc về xu hướng tăng của giá. Tuy nhiên, sau thời điểm đó, chúng ta có thể nhìn thấy một sự đảo ngược xu hướng đã không xảy ra cho tới giữa tháng Giêng. Đường SMA13 ngày đã quá nhạy cảm tới sự sụt giảm giá tạm thời. Trong giai đoạn này, đường chậm hơn là SMA26 ngày đã tiếp tục cho tín hiệu chính xác về một xu hướng tăng.
Sử dụng nhiều đường trung bình động
Phân tích không chỉ giới hạn bởi thông tin được cung cấp từ chỉ một đường trung bình động. Xem xét nhiều đường trung bình động với các độ dài khác nhau một cách đồng thời có thể làm gia tăng bộ thông tin cho các nhà phân tích. Ví dụ như, như hiển thị trong hình 7.2, một mức hỗ trợ hoặc mức kháng cự thường xảy ra nơi hai đường trung bình động cắt nhau. Nơi đường trung bình động ngắn hơn cắt lên trên đường trung bình động dài hơn thì thường được xem là một tín hiệu mua cơ học, hoặc ít nhất là một tín hiệu về xu hướng giá tăng. Tương tự, nó cũng được xem xét là một tín hiệu bán khi mà đường ngắn hơn giảm xuống phía dưới đường dài hơn. Có nhiều chiến lược đường trung bình động thành công sử dụng đường trung bình động như là yếu tố quyết định chính của xu hướng và sau đó sử dụng đường trung bình động ngắn hạn cho cả lệnh dừng lỗ theo xu hướng hoặc các tín hiệu. Một số trường hợp, đường trung bình động được sử dụng để xác định xu hướng và sau đó các mô hình biểu đồ được sử dụng như là các tín hiệu mở và đóng vị thế.
Tuy nhiên, sử dụng các loại tín hiệu đường trung bình động kép này trong suốt một xu hướng đi ngang của giá có thể dẫn tới một số biến động giằng co qua lại gây nhiễu. Vấn đề này có thể được nhìn thấy trong hình 7.3. Về cơ bản vấn đề này cũng tương tự như xảy ra trong suốt xu hướng đi ngang tiêu chuẩn trong một vùng tắc nghẽn. Nó khá khó khăn để xác định từ những biến động này trong đó cách mà giá cả đi tới điểm đột phá. Trong khi đó, chúng giao động qua lại giữa các mức kháng cự và hỗ trợ. Một đường trung bình động không cung cấp thêm thông tin về cách mà xu hướng cuối cùng sẽ bị phá vỡ. Quả thực, một đường trung bình động đòi hỏi cần có xu hướng cho một sự giao cắt để thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa rằng nhà phân tích cần chắc chắn rằng một xu hướng đã tồn tại trước khi sử dụng các tín hiệu giao cắt đường trung bình động. Nếu không - và một số nhà giao dịch sẵn lòng chấp nhận rủi ro với những biến động giằng co qua lại trong ngắn hạn để họ không bị bỏ lỡ khỏi xu hướng lớn - một số lượng lớn các tín hiệu sẽ sai và tạo ra một khoản thua lỗ nhỏ trong khi chờ đợi chỉ một tín hiệu mà sẽ tạo ra một khoản lợi nhuận lớn. Điều này có thể là một phương pháp đạt lợi nhuận cao mang đến cho nhà phân tích có sự kiên nhẫn và kỷ luật để tiếp tục với những khoản lỗ nhỏ và thường là cơ sở cho đa số các hệ thống xu hướng dài hạn. Cũng là cách chứng minh rằng, với kỷ luật đúng, họ có thể có được lợi nhuận trong khi vẫn thua lỗ trong phần lớn các giao dịch nhỏ.

Những loại đường trung bình động nào khác được sử dụng là gì?
Mặc dù chúng ta đã thảo thuận nhiều độ dài về các loại đường trung bình động, nhưng cho tới thời điểm này, thảo luận của chúng ta đã tập trung vào sự tính toán loại đường trung bình động cơ bản nhất - đó là đường trung bình động giản đơn SMA. Nên nhớ rằng sự tính toán mỗi ngày của SMA là thể hiện việc cộng thêm vào số giá của ngày gần nhất và loại bỏ ra số giá của ngày sớm nhất trước đó. Khi tính toán đường trung bình động giản đơn, thì trọng số bằng nhau cho sự quan sát của mỗi ngày. Ví như đường SMA 10 ngày, thông tin chứa trong giá cổ phiếu của mỗi một ngày trong 10 ngày đó đều mang tới tầm quan trọng như nhau. Tuy nhiên, trong những tình huống nhất định, giá cổ phiếu ngày gần nhất có thể có ảnh hướng hơn vào hướng dịch chuyển tương lai của cổ phiếu hơn là giá của cổ phiếu ở 10 ngày trước đó. Nếu sự quan sát những ngày gần hơn chưa thông tin liên quan hơn so với sự quan sát trước đó thì chúng ta muốn trọng số dữ liệu sẽ nghiêng về sự quan sát của ngày gần nhất. Bằng cách tính toán đường trung bình động có trọng số, thông tin của ngày gần nhất sẽ có trọng số nặng hơn. Cách tính trọng số này sẽ giúp sự quan sát của ngày gần nhất có tầm quan trọng hơn trong việc tính toán về đường trung bình động.
Đường trung bình động có trọng số tuyến tính (LWMA)
Giờ chúng ta hãy đề cập trở lại ví dụ trong bảng 7.1 để tính toán một đường trung bình động có trọng số tuyến tính. Một đường trung bình động có trọng số tuyến tính 10 ngày được tính bằng cách nhân quan sát ngày thứ 10 với 10, quan sát ngày thứ 9 với 9, quan sát ngày thứ 8 với 8,... rồi lấy tổng của những số này cộng lại với nhau và chia cho tổng của toàn bộ hệ số nhân. Trong trường hợp này thì tổng sẽ chia cho tổng của 10+9+8+7+6+5+4+3+2+1, tức là chia cho 55. Trong bảng 7.1, chúng ta tìm thấy đường trung bình động có trọng số tuyến tính cho 10 ngày giao dịch đầu tiên là 85.78.
Khi sử dụng cách tính trọng số cho đường trung bình động 10 ngày này thì dữ liệu giao dịch ngày thứ 10 có tầm quan trọng gấp đôi so với giá của 5 ngày trước đó (ngày 5) và có tầm quan trọng gấp 10 lần so với giá của 10 ngày trước đó (ngày 1). Khi chúng ta tiếp tục tính toán đường trung bình động có trọng số tuyến tính 10 ngày cho ngày 11 thì giá giao dịch từ ngày 2 tới ngày 11 sẽ được tính trọng số lại. Do đó, cũng như với đường trung bình động giản đơn, khi đường trung bình động được tính toán cho mỗi ngày kế tiếp thì thông tin ngày giao dịch sớm nhất sẽ được loại bỏ khởi tập dữ liệu được sử dụng để tính toán.
Đường trung bình động được làm mịn theo cấp số nhân (EMA)
Đối với một số nhà phân tích thì việc loại bỏ dữ liệu ngày giao dịch sớm nhất mà xảy ra với một đường trung bình động giản đơn (SMA) hoặc với một đường trung bình động có trọng số tuyến tính (LWMA) là một vấn đề. Nếu như giá gần nhất phản ánh sự thay đổi ít trong khi giá sớm nhất, bây giờ đã bị loại bỏ, cho thấy thay đổi đáng kể thì đường trung bình động có thể bị ảnh hướng quá mức từ việc loại bỏ dữ liệu cũ hơn. Một thay đổi lớn trong đường trung bình động đến từ việc loại bỏ dữ liệu sớm có khả năng sinh ra một tín hiệu sai. Điều này được gọi là " hiệu ứng giảm dần" (Kaufman, 1998) và có thể là khía cạnh bị chỉ trích nhiều nhất của đường trung bình động giản đơn (SMA).
Mặc dù khá dễ dàng để nhìn thấy việc dữ liệu sớm này không nhất thiết là quan trọng để xác định sự dịch chuyển giá trong tương lại như với giá gần nhất, nhưng nó vẫn chứa thông tin có thể có giá trị. Với cả đường trung bình động giản đơn (SMA) và đường trung bình động có trọng số tuyến tính (MWMA) thì thông tin cũ này, nằm bên ngoài khoảng thời gian của đường trung bình động, đã bị bỏ qua hoàn toàn. Để giải quyết vấn đề này và duy trì được thông tin cũ này trong việc tính toán đường trung bình động thì các nhà phân tích sử dụng đường trung bình động theo cấp số nhân (đường trung bình lũy thừa - EMA).
Để xem cách đường trung bình động cấp số nhân được tính toán như thế nào, giờ chúng ta hãy trở lại với ví dụ được đề cập trong bảng 7.1. Trung bình động giản đơn 10 ngày vào ngày 10 là 85.35. Giá đóng cửa vào ngày 11 là 84.94, là một giá trị thấp hơn so với giá trị trung bình của 10 ngày trước. Để tính trung bình động cấp số nhân, chúng ta sẽ sử dụng cả trung bình động 10 ngày (đại diện cho tỷ lệ thay đổi trung bình từ ngày 1 tới ngày 10) và giá đóng cửa của ngày 11. Do đó, giờ chúng ta sử dụng thông tin giá của 11 ngày. Nếu như chúng ta tiến tới tính một đường trung bình động giản đơn (SMA) sử dụng thông tin 11 ngày này thì giá của mỗi ngày sẽ có một trọng số là 1/11 hay là 9.09% trong việc tính toán. Tuy nhiên, nên nhớ rằng điều mà chúng ta muốn là đặt trọng số lớn hơn vào thông tin của giá ngày gần đây hơn. Nếu như chúng ta muốn thông tin giá của ngày 11 có một trọng số lớn gấp đôi so với trọng số mà nó đã có trong đường trung bình động giản đơn thì nó sẽ có một trọng số là 2/11 hay là 18.18%. Tất nhiên tổng của toàn bộ những trọng số này trong việc tính toán đường trung bình động cấp số nhân cần phải có tổng là 100%. Điều này để lại 100% trừ đi 18.18%, hay là 81.82% trọng số được đặt vào trung bình động 10 ngày.
Công thức tổng quát để xác định trọng số của dữ liệu ngày hiện tại trong việc tính toán trung bình động cấp số nhân là như sau:

Trong ví dụ của chúng ta, thì việc tính toán đem đến cho chúng ta trọng số hiện tại là = 2: (10+1) = 18.18%. Nếu như chúng ta sử dụng một đường trung bình động dài hơn thì trọng số này sẽ giảm giá trị xuống. Đối với đường EMA (trung bình động cấp số nhân) 19 ngày thì việc tính toán sẽ là 2: (19+1) hay là 10%; còn với EMA 39 ngày sẽ có trọng số là 2: (39+1) hay là 5%.
Công thức tổng quát để xác định trọng số cho trung bình động trong việc tính toán trung bình động cấp số nhân là như sau:

Khi chúng ta có được các trọng số thì công thức để tính đường trung bình động cấp số nhân sẽ là như sau:

Trung bình động cấp số nhân của ngày 11 trong ví dụ của chúng ta ở bảng 7.1 được tính toán như sau:

Để tính trung bình động cấp số nhân cho ngày 12, chúng ta chỉ cần 2 thông tin sau - trung bình động cấp số nhân của ngày 11 và giá đóng cửa của ngày 12. Đường trung bình động cấp số nhân ngày 12 (EMA12) sẽ được tính như sau:

Hình 7.4 hiển thị cả đường SMA 26 ngày và đường EMA 26 ngày của cổ phiếu WMT. Thông thường thì EMA sẽ thay đổi hướng nhanh hơn do việc áp thêm trọng số được đặt vào dữ liệu gần nhất. Tuy nhiên, hai đường cong này sẽ thường theo dõi chặt chẽ lẫn nhau.
Đường EMA được sử dụng trong một số các chỉ báo và dao động. Chỉ số McClellan sử dụng EMA 19 ngày và EMA 39 ngày. Vì EMA 19 thanh (bar) có hệ số làm mịn là 0.10 và EMA 39 thanh (bar) có hệ số làm mịn là 0.05, việc tính toán những hệ số này tương đối đơn giản. Chúng ta sẽ nhìn thấy sau này về một số các dao động (oscillators) sử dụng đường EMA, nổi bật nhất là đường MACD. Lý do sử dụng đường EMA là do nó khá dễ để tính toán và trọng số của nó được đặt lớn hơn vào giá gần đây hơn. Do đó, nó được gọi là một trung bình động có trọng số cấp số nhân.

Phương pháp Wilder
Welles Wilder (1978) đã sử dụng một phương pháp đơn giản khác để tính trung bình động mà trọng số đặt vào số gần đây nhất sẽ nặng hơn. Công thức để tính trung bình động của Wilder như sau:

Phương pháp của Wilder để tính trung bình động nên được sử dụng trong các tính toán về chỉ báo Phạm vi trung bình thực (ATR - Average True Range), chỉ báo Chỉ số sức mạnh tương đối (RSI - Relative Strength Index) và chỉ báo Chuyển động định hướng (DMI - Directional Movement Indicator) mà ông đã phát minh hơn là sử dụng đường SMA hay EMA. Khi sử dụng các chỉ báo của Wilder mà đã được đóng gói sẵn trong phần mềm giao dịch và lập biểu đồ có sẵn, nhà đầu tư cần chắc chắn rằng các tính toán về đường trung bình động là của Wilder. Một số các chương trình phần mềm chỉ sử dụng SMA hoặc EMA và cho ra kết quả không nhất quán với phương pháp của Wilder.
Trung bình động hình học (GMA)
Trung bình động hình học (GMA) được sử dụng chủ yếu trong các chỉ số. Nó là một trung bình động giản đơn về phần trăm các thay đổi giữa thanh bar trước đó với thanh bar hiện tại qua một số khoảng thời gian đã được xác định trước đó. Sử dụng tỷ lệ % hơn là số điểm không làm cho phạm vi hay kích thước của nó thay đổi giống như một trung bình động được tính dựa vào giá cả. Tuy nhiên, nó vẫn gặp phải tất cả những vấn đề khác liên quan đến trọng số bằng nhau và độ trễ.
Trung bình động tam giác
Lấy một trung bình động của một trung bình động cho ra một trung bình động được làm mịn gấp đôi. Trung bình động tam giác (TMA) bắt đầu với một trung bình động giản đơn (SMA) của một số thanh bar được xác định và sau đó, sử dụng kết quả này, lấy một trung bình động của một nửa độ dài của số thanh bar ban đầu. Một ví dụ sẽ là một SMA 20 ngày của giá đóng cửa hàng ngày được làm mịn trong một SMA 10 ngày. Kết quả là một đường được làm mịn mà nhấn mạnh trọng số ở điểm giữa trong chuỗi giá. Lợi ích của phương pháp này là nó làm mịn gấp đôi dữ liệu và do đó, thể hiện xu hướng tốt hơn. Tuy nhiên, làm mịn gấp đôi cũng làm giảm đi độ nhạy của nó tới sự thay đổi của xu hướng.
Các EMA biến đổi
Sử dụng một trung bình động biến đổi được đề xuất bởi Chande và Kroll (1994). Trung bình động này giống như một trung bình động cấp số nhân/hàm số mũ/lũy thừa (EMA), nhưng cách đặt trọng số là được điều chỉnh dựa vào biến động của dữ liệu giá. Điều này được thực hiện để tạo ra EMA ngắn hơn trong suốt các phạm vi giao dịch khi biến động được thu hẹp và mở rộng EMA khi giá bắt đầu vào xu hướng. Mong muốn là để giảm bớt số các tín hiệu có hại trong suốt một phạm vi giao dịch.
Có một số các biến thể của chủ đề này. Ví dụ như, đường trung bình động thích nghi Kaufman (KAMA) liên quan tới một công thức vô cùng phức tạp mà điều chỉnh EMA theo biến động và xu hướng (Kaufman, 1998). Trung bình động được điều chỉnh theo khối lượng (Arms, 1989) là đường trung bình động khá phức tạp, nhưng bản chất của nó là nhấn mạnh những thanh bar có khối lượng cao hơn. Trong số tháng 09.2001 của tạp chí Stocks and Commodities (Cổ phiếu và hàng hóa), John Ehlers trình bày MÂM và FAMA. MAMA, đường trung bình động thích nghi MESA và FAMA là trung bình động thích nghi theo sau, là các EMA mà điều chỉnh theo các biến động sử dụng biến đổi của Hilbert được dựa vào giai đoạn thay đổi của một chu kỳ trong dữ liệu. Đương nhiên là việc tính toán những đường trung bình động này là phức tạp. Một tín hiệu mua hoặc bán được tạo ra khi MAMA giao cắt FAMA. Vào tháng 04.2004, Tạp chí Active Trader đã so sánh tính hiệu quả khi sử dụng chiến lược MAMA-FAMA so với sử dụng SMA cho 18 cổ phiếu và cho thấy rằng chiến lược MAMA-FAMA được thực hiện chỉ tốt hơn chút ít so với phương pháp giản đơn.
Các chiến lược sử dụng đường trung bình động
Chúng ta đã nhìn vào các cách để tính đường trung bình động. Mặc dù mỗi một phương pháp này đều có các ưu và nhược điểm của nó, nhưng mối quan tâm chính của chúng ta không phải là cách để tính một đường trung bình động mà là cách để sử dụng đường trung bình động để kiếm tiền. Đường trung bình động được sử dụng phổ biến trong quá trình thực hành phân tích kỹ thuật. Chúng là công cụ cơ bản với một tập hợp nhiều cách sử dụng đa dạng. Các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng đường trung bình động để xác định xu hướng, xác định các mức hỗ trợ và kháng cự, xác định các điểm giá cực trị và cho những tín hiệu giao dịch cụ thể.
Xác định xu hướng
Các nhà phân tích kỹ thuật sử dụng đường trung bình động vào 4 cách cơ bản sau. Thứ nhất, đường trung bình động được sử dụng để làm thước đo xu hướng. Cách sử dụng phổ biến nhất là so sánh giá hiện tại với đường trung bình động đại diện cho khung thời gian đầu tư của nhà đầu tư. Chẳng hạn, nhiều nhà đầu tư sử dụng đường trung bình động 200 ngày. Nếu như cổ phiếu hoặc chỉ số thị trường nằm trên đường trung bình động 200 ngày của nó thì xu hướng được coi là tăng. Ngược lại, nếu như cổ phiếu hoặc chỉ số thị trường nằm dưới đường trung bình động 200 thì xu hướng được coi là giảm.
Trong hình 7.5, bạn có thể nhìn thấy cách đường trung bình động có khuynh hướng đi theo đường xu hướng khá tốt. Đường trung bình động sau đó trở thành một đại diện cho đường xu hướng và có thể được sử dụng để xác nhận khi nào thì một xu hướng có khả năng đang chuyển hướng, giống như một đường xu hướng có thể làm. Ví dụ như trong biểu đồ thì các mức giá sau đó đã giữ ở cả đường xu hướng và đường trung bình động.

Xác định hỗ trợ và kháng cự
Thứ hai, đường trung bình động thường có hành vi như là hỗ trợ hoặc kháng cự. Như chúng ta đã nhìn thấy ở hình 7.5, một đường trung bình động thường là bản sao của đường xu hướng; do đó, nó có thể có cơ chế là một lệnh dừng theo xu hướng để dễ dàng xác định khi nào thì một vị thế nên được tất toán hay được giảm bớt xuống. Ngoài ra, giá dường như ngừng lại tại vùng lân cận đường trung bình động. Ví dụ như trong hình 7.5, cổ phiếu WMT đã dừng lại đợt tăng lên của nó tại đường trung bình động vào cuối tháng 11 và lần nữa đã dừng lại đợt giảm của nó vào đầu tháng 12 tại đường trung bình động .
Xác định các mức giá cực trị
Thứ ba, đường trung bình động là một chỉ báo về mức giá cực trị. Bởi vì đường trung bình động là một giá trị trung bình cho nên bất kỳ một sự hồi phục nào tới giá trị trung bình cũng sẽ có khuynh hướng tiến gần tới đường trung bình động. Đối với các mục tiêu giao dịch, sự hồi phục này đôi khi mang lại lợi nhuận khi giá hiện tại bị lệch ra xa đáng kể so với giá trị trung bình đó hoặc đường trung bình động. Giá cả có khuynh hướng trở về giá trị trung bình. Do đó, một sự lệch ra xa so với đường trung bình động là một thước đo cho thấy giá đã tăng lên bao nhiêu hoặc giảm xuống bao nhiêu so với xu hướng trung tâm thông thường của chúng và vì có khả năng trở về mức giá trị trung bình đó nên sự chênh lệch này sau đó trở thành một cơ hội để giao dịch ngược với xu hướng. Như thường lệ, giao dịch chống lại xu hướng khá nguy hiểm và đòi hỏi lệnh dừng lỗ phải chặt chẽ, nhưng sự hồi phục cũng cung cấp một cơ hội để định vị theo xu hướng khi nó xảy ra. Ngoài ra, khi giá tiếp tục dịch chuyển ra xa đáng kể so với xu hướng thì chúng thường báo hiệu rằng xu hướng đang đổi hướng.
Một ví dụ về độ lệch xung quanh đường SMA10 ngày như hiển thị trong hình 7.6. Đây là một tỷ lệ giữa giá đóng cửa so với đường trung bình động 10 ngày của nó. Đó là một cổ phiếu có xu hướng tăng mạnh (xu hướng chiếm ưu thế cho mục tiêu của chúng ta). Khi giá cả đang trong xu hướng mạnh thì chúng tự nhiên sẽ chệch khỏi đường trung bình động theo hướng của xu hướng hơn là ngược lại. Trong hình 7.6, bạn có thể nhìn thấy chúng có mức tăng cao hơn nhiều trên mức cân bằng 1.0 hơn là chúng đã làm trong suốt giai đoạn điều chỉnh trong xu hướng tăng. Đường tín hiệu hành động có thể từ đó được thiết lập, bằng cách kiểm tra, tại các mức mà tối ưu hóa các tín hiệu ngược xu hướng. Trong hình 7.6, chúng tôi đã tùy ý sử dụng 1.0450 là tỷ lệ mà dưới nó chúng tôi sẽ bán ra WMT, thậm chí ngay cả khi trong xu hướng tăng của nó và 0.9750 là mức mua mà trên nó chúng tôi mua vào. Theo phương pháp này thì chúng tôi mua vào ngày 21.10 tại mức giá 76.02 và bán ra tại mức giá 86.40 vào ngày 02.12. Lần nữa, chúng tôi mua vào tại điểm đột phá tăng trên tỷ lệ mức mua vào ngày 15.12 tại mức giá 83.94 và bán ra tại mức giá 89.35 vào ngày 09.01.

Chúng tôi đã thu được lợi nhuận tốt bằng cách giao dịch theo xu hướng. Tín hiệu mua cuối cùng đến vào ngày 03.02 tại mức giá 86.19. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng đường xu hướng đã bị phá vỡ và do đó xu hướng bây giờ có thể đang đi ngang hoặc giảm xuống. Chúng tôi đã bán tại mức giá cao nhất nhưng do dự để mua vào khi có tín hiệu bởi vì xu hướng có khả năng thay đổi. Còn điều gì khác có thể dẫn tới sai lầm? Đôi khi xu hướng mạnh tới mức mà mức tỷ lệ không bao giờ chạm tới bên dưới mức mua. Do đó một lệnh dừng mua vào nên được đặt phía trên thanh bar nơi đã thực hiện bán. Trong ví dụ cuối cùng trên biểu đồ, nơi xu hướng có thể đã thay đổi, mua vào có thể không hiệu quả, nhưng nếu nó có một lệnh dừng bán tại mức thấp nhất của thanh bar tín hiệu của nó, một điểm phá vỡ của mức thấp nhất đó sẽ báo hiệu một sự thay đổi xu hướng qua giảm xuống và các mức mua vào và bán ra trong tỷ lệ sẽ là số đối (ví dụ về số đối của 4 là 0.25 vì 4x0.25=1) của các mức xu hướng tăng. Trước khi bạn thử hệ thống này thì bạn nên kiểm tra cho kỹ để tối ưu các mức tỷ lệ dưới mọi hướng xu hướng bao gồm cả xu hướng phẳng. Trong ví dụ này, chúng ta đã không tối ưu hóa các mức; do đó, chúng không nên được sử dụng cho đến khi được kiểm tra kỹ.
Cung cấp các tín hiệu cụ thể
Thứ tư, một số nhà phân tích kỹ thuật sử dụng đường trung bình động để đưa ra các tín hiệu cụ thể. Các tín hiệu có thể xảy ra khi giá cắt qua một đường trung bình động, khi một đường trung bình động ngắn hơn cắt qua một đường trung bình động dài hơn, và trong một số trường hợp, khi một đường trung bình động thứ ba thậm chí ngắn hơn cắt qua 2 đường trung bình động dài hơn. Thông thường, sử dụng 2 đường trung bình động và các giao cắt của chúng như là một tín hiệu đã có hiệu quả, nhưng với những đợt giảm sút đáng kể về vốn trong thị trường đi ngang bởi vì nhiều giao dịch nhỏ thua lỗ đã xảy ra từ nhiều tín hiệu giả. Các phương pháp, như là sử dụng ADX, được mô tả trong phần tiếp theo, đã được phát triển để xác định nếu giá đang có xu hướng ở một tỷ lệ mà tại đó một hệ thống giao cắt đường trung bình động sẽ hoạt động hay không. Hệ thống MAMA-FAMA đã được mô tả trước đó và các phương pháp khác về đường trung bình động được điều chỉnh để thay đổi theo sự dao động là nhắm tới giải quyết vấn đề sụt giảm này. Tuy nhiên, nó sẽ không biến mất và do đó, mặc dù các phương pháp giao cắt mang lại lợi nhuận theo thời gian nhưng nhà đầu tư cần phải kiên nhẫn và có đủ vốn để chịu đựng một chuỗi những thua lỗ nhỏ cho đến khi hình thành một xu hướng.
Trong 4 chiến lược này thì không ngoan nhất là sử dụng đường trung bình động để xác định xu hướng. Xu hướng là nơi mà nhà phân tích kỹ thuật kiếm lợi nhuận. Nếu như đường trung bình động có thể giúp việc xác định xu hướng thì nó là một công cụ hữu ích. Thực tế thì chỉ trong một thị trường có xu hướng thì các tín hiệu đường trung bình động mới mang lại được lợi nhuận. Trong một thị trường đi ngang thì hầu hết các trường hợp đều gây thua lỗ, đặc biệt là nếu như nhà đầu tư phụ thuộc vào các tín hiệu giao cắt của đường trung bình động. Phương pháp chênh lệch với xu hướng (xem phần "Xác định các mức giá cực trị" ở trên và hình 7.6) là về phương pháp đường trung bình động duy nhất mà có thể kiếm được lợi nhuận trong một xu hướng phẳng. Khi hướng của xu hướng đã được thiết lập và được xác định thì phương pháp tốt nhất tiếp theo đó là sử dụng các mô hình giá và điểm đột phá theo hướng của xu hướng làm thời điểm để tham gia một vị thế. Những phương pháp này sẽ trễ hơn sau đỉnh và đáy lớn của một xu hướng giá nhưng sẽ tích lũy lợi nhuận và giảm thiểu các mức thua lỗ trong khi xu hướng đang diễn ra. Chúng cũng là phương pháp phổ biết nhất trong các hệ thống giao dịch chuyên nghiệp, cùng với các hệ thống bứt phá kênh như là quy tắc 4 tuần của Donchian mà chúng tôi sẽ thảo luận trong phần "Kênh - Channel" của chương này.
Chuyển động định hướng (DM - Directional Movement) là gì?
Một trong những đóng góp lớn cho khái niệm của xu hướng và hướng đó là khái niệm về chuyển động định hướng mà Welles Wilder (1978) đã phát triển trong cuốn sách New Concepts in Technical Trading Systems của anh ấy. Wilder đã so sánh phạm vi giao dịch 1 ngày của cổ phiếu với phạm vi giao dịch ở ngày trước để đo lường xu hướng. Chuyển động định hướng dương xảy ra khi mà giá cao nhất của ngày đã vượt quá giá cao nhất của ngày trước đó. Như hiển thị trong hình 7.7, lượng chuyển động định hướng dương (+DM) là giá cao nhất của ngày trừ đi giá cao nhất của ngày trước đó, hoặc là khoảng cách dọc giữa đỉnh của 2 thanh bar. Nếu như giá thấp nhất của ngày thấp hơn so với giá thấp nhất của ngày trước đó, chuyển động định hướng âm (-DM) xảy ra. Giá trị của chuyển động định hướng âm (-DM) là khoảng cách giữa 2 mức thấp nhất.
Vào những ngày mà phạm vi giao dịch hoàn toàn bên trong phạm vi ngày trước đó sẽ bị bỏ qua và một số 0 được cho vào phần thừa của phạm vi. Ngoài ra, có những ngày có phạm vi giao dịch đôi khi lớn hơn nhiều so với phạm vi giao dịch của ngày trước đó. Điều này có thể dẫn tới cả giá cao nhất cao hơn và giá thấp nhất thấp hơn. Khi điều này xảy ra thì chênh lệch lớn hơn sẽ thắng. Nói cách khác là chỉ một +DM hoặc -DM có thể được ghi nhận cho ngày cụ thể.
Xây dựng các chỉ báo Chuyển động định hướng (Directional Movement Indicators)
Một giá trị trung bình động được tính toán cho cả +DM và -DM, thường là trong khoảng thời gian 14 ngày, sử dụng phương pháp tính trung bình của Wilder. Ngoài ra, một phạm vi giao dịch trung bình 14 ngày (ATR) cũng được tính. Hai chỉ báo được tính toán dựa trên việc sử dụng dữ liệu này. Chỉ báo chuyển động định hướng dương (DI+) là tỷ lệ giữa +DM được làm mượt và TR; sự tính toán này cho tỷ lệ % của phạm vi giao dịch thực tế nằm trên mức cân bằng trong 14 ngày đó. Chỉ báo tiếp theo là chỉ báo chuyển động định hướng âm (DI-) được tính toán là tỷ lệ giữa -DM được làm mượt và ATR .

Sử dụng các chỉ báo Chuyển động định hướng
Hình 7.8 hiển thị các chỉ báo DI 14 ngày của cổ phiếu Walmart (WMT). Nhìn vào biểu đồ này, một nhà phân tích sẽ nhìn thấy một số gợi ý về xu hướng. Dấu hiệu đầu tiên là khi một DI cao hơn so với DI kia thì xu hướng đang cùng hướng với DI đó. Ví dụ như từ đầu tháng 11 cho tới cuối tháng 01, DI+ nằm trên DI-, cho thấy phần lớn mức vượt quá (phần dư) ATR 14 ngày của cổ phiếu WMT là ở phía tăng trong suốt khoảng thời gian này. Giao cắt lớn đầu tiên đã xảy ra vào đầu tháng 10 khi DI+ đã cắt lên trên DI- (được đánh dấu là X1) cho thấy một sự tăng lên trong xu hướng giá, và lần hai xảy ra vào cuối tháng 01 khi DI- đã cắt trên DI+ (được đánh dấu là X2) đã cảnh báo chúng ta rằng xu hướng đã đảo chiều sang giảm. Điều này đã xác nhận điểm phá vỡ giảm trước đó của đường xu hướng. Do đó, sự giao cắt của DMI là một tín hiệu quan trọng trong phân tích xu hướng.
Thứ hai là sự giao cắt nhỏ đã xảy ra vào đầu tháng 02 (được đánh dấu là mc) và chỉ kéo dài một ngày là một tín hiệu quan trọng. Nó gợi ý rằng hướng của xu hướng bây giờ là đi ngang và giống như một khu vực tắc nghẽn, nó có thể phá vỡ vào cả hai hướng. Thông thường thì hai chỉ báo DI sẽ đi tới cân bằng và sau đó tách ra theo hướng ban đầu của chúng, như đã xảy ra ở đây, trong đó trường hợp xu hướng trước đó vẫn tiếp tục. Tại thời điểm khác, các chỉ báo DI cắt mạnh và rạch ròi hơn, như chúng đã làm vào cuối tháng 01 và cho tín hiệu đảo chiều xu hướng. Do đó, khi hai đường này gặp nhau thì nó là một khoảng thời gian quan trọng. Wilder đã đề xuất đặt một lệnh dừng mua hoặc lệnh dừng bán tại mức giá khi hai đường này cắt nhau lần đầu. Trong hình 7.8, là hai đường chỉ báo DI này cắt này vào đầu tháng 02, chúng tôi không biết liệu đây có phải là một sự đảo chiều xu hướng hay không. Do đó, chúng tôi đã đặt một lệnh dừng mua tại mức giá chỉ trên giá đã xảy ra khi hai đường này cắt nhau đầu tiên. Nếu xu hướng đang đảo chiều thì giá sẽ chạm lệnh dừng của chúng tôi, và vị thế của chúng tôi sẽ chạy theo xu hướng tăng mới. Còn nếu như lệnh dừng đó không được kích hoạt thì hai đường này sẽ có khả năng lại tách rời nhau ra và xu hướng giảm trước đó sẽ tiếp tục mà không có chúng tôi tham gia.

Thứ ba là các kỹ thuật phân kỳ tiêu chuẩn có hiệu lực với chỉ báo DMI. Trong hình 7.8, chú ý nơi đỉnh cao nhất vượt quá đỉnh trước đó (mô tả trong biểu đồ giá là đường nét đứt nối từ đỉnh tới đỉnh) là không được xác nhận trong DI+, đường đã thất bại để đạt tới một mức đỉnh cao hơn tại cùng thời điểm đó (mô tả trong biểu đồ DMI là đường nét đứt nối từ đỉnh tới đỉnh). Điều này chính là sự phân kỳ âm, mặc dù nó không phải là một tín hiệu để hành động nhưng là một tín hiệu cảnh báo rằng sức mạnh của xu hướng tăng trước đó đang yếu đi.
Thứ tư là, các chỉ báo DI có thể được sử dụng để tạo ra một chỉ báo định hướng (DX). DX này sau đó được sử dụng để tạo ra DX trung bình và được gọi là đường ADX như hiển thị trong hình 7.9. DX được tính toán bằng cách lấy giá trị tuyệt đối của khoảng cách giữa 2 chỉ báo DI và đem chia cho tổng của 2 chỉ báo DI của nó. DX luôn dương và thể hiện khuynh hướng của thị trường về xu hướng bởi vì nó đo lường DI này ngược lại với DI khác. Khi một DI rất lớn so với một DI khác thì thị trường đang dịch chuyển mạnh theo hướng của DI đó và giá trị của DX sẽ lớn.
Đường ADX là giá trị được làm mượt của DX và được vẽ trong hình 7.9. Khi ADX tăng lên thì thị trường ngày càng có xu hướng theo một trong hai hướng.
Chỉ báo ADX có giá trị trong việc xác định khi nào thì nên áp dụng hệ thống giao dịch theo xu hướng đường trung bình động. Một ADX đang tăng lên báo hiệu khả năng cao có một xu hướng xuất hiện theo các mức giá tương ứng. Một ADX thấp hoặc giảm sút báo hiệu một xu hướng đi ngang hoặc ảm đạm trên một xu hướng đang mất đà. Chúng ta biết rằng hệ thống giao cắt đường trung bình động có nhiều độ nhiễu khi mà thị trường không có xu hướng nhưng nó sẽ thu được kết quả lợi nhuận khi mà thị trường có xu hướng theo hướng tăng hoặc hướng giảm. Nhiều mô hình đi theo xu hướng (trend-following) sử dụng ADX để xác định khi nào thì tiền nên được đầu tư vào thị trường.
Thứ tư là các đỉnh và đáy của ADX cung cấp thông tin có giá trị về xu hướng giá. Khi ADX đạt đỉnh, nó thường cho tín hiệu một đỉnh hoặc đáy trong giá. Trong hình 7.9, các đỉnh của ADX (được đánh dấu bằng các mũi tên) cho thấy chúng tương đồng chặt chẽ như thế nào với các điểm đảo chiều tăng hoặc đảo chiều giảm trong giá. Bởi vì việc xác định chính xác điểm kết thúc xu hướng của chúng là rất chính xác nên các đỉnh ADX được sử dụng như các tín hiệu giao dịch để đóng các vị thế theo xu hướng.
Các đáy của ADX cũng có hữu ích vì chúng thể hiện các khoảng thời gian khi thị trường trở nên nằm yên (đi ngang trong biên độ hẹp - nd) và không có xu hướng nhưng đang bắt đầu tăng tốc theo một hướng xu hướng. Khi ADX bắt đầu tăng lên, không nhất thiết là từ một mức thấp nhất, thì nó báo hiệu một sự đột ngột tăng lên theo xu hướng và là một thời điểm để tìm kiếm điểm vào xu hướng. Như chúng ta đã biết từ việc quan sát các điểm ùn tắc, một khoảng thời gian nằm yên thường được theo sau đó bởi một khoảng thời gian sôi động. Hiện tượng này có thể được nhìn thấy trong hình 7.9 với các đáy ADX (được đánh dấu bằng dấu mũi tên nằm trong các vòng tròn) được gắn liền với khoảng thời gian nằm yên chuyển thành một xu hướng với động lực tăng dần lên. Khi một đáy ADX xảy ra thì nhà giao dịch hoặc nhà đầu tư nên quan sát giá cẩn thận để tìm kiếm một điểm đột phá theo cả hai hướng.
ADX và DMI có thể được sử dụng cho biểu đồ tuần, biểu đồ tháng và thậm chí cả kỳ ngắn hơn là biểu đồ trong ngày (intraday chart) để tìm manh mối về hướng và sức mạnh của xu hướng.

Envelopes, Channels và Bands là gì?
Chú thích của người dịch:
- Envelope: Có thể hiểu là "phong bì", nhưng trong ngữ cảnh này, nó thường được dùng để chỉ một khoảng giá biến động của một tài sản trong một khoảng thời gian nhất định.
- Channel: Có thể hiểu là "kênh", thường ám chỉ một xu hướng giá rõ ràng, có thể là tăng hoặc giảm.
- Band: Có thể hiểu là "dải", thường ám chỉ một phạm vi giá mà giá của một tài sản di chuyển trong đó.
Đường trung bình động giản đơn (SMA-nd) đại diện cho trung tâm của xu hướng giá cổ phiếu. Trong thực tế giá có khuynh hướng giao động quanh đường trung bình động này. Giá biến động tập trung quanh đường trung bình động nhưng nằm vào bên trong một band (dải) hoặc evelope (phong bì) bao quanh đường trung bình động. Bằng cách xác định band (dải) mà giá thường xuyên giao động bên trong nó, nhà phân tích có khả năng xác định được tốt hơn phạm vi mà giá có thể được dự đoán sẽ dao động.
Tỷ lệ % Envelopes
Một cách để tạo ra loại band này (dải này) đó là sử dụng tỷ lệ % envelopes. Phương pháp này cũng được biết đến là một bộ lọc tỷ lệ %, được phát triển nhằm nỗ lực để giảm bớt vô số các tín hiệu không thu được lợi nhuận (không có lãi) từ sự giao cắt của đường trung bình động khi mà xu hướng đi ngang. Đây là một phương pháp phổ biến được sử dụng trong hầu hết các nghiên cứu học thuật về hệ thống giao cắt đường trung bình động. Nó được tính toán bằng cách lấy một tỷ lệ % của đường trung bình động và vẽ nó phía trên và phía dưới đường trung bình động (xem hình 7.10) - do đó nó được gọi với thuật ngữ là envelope. Đồ thị này tạo ra hai đường đối xứng nhau: một đường phía trên và một đường phía dưới đường trung bình động.
Envelope này sau đó trở thành tín hiệu kích hoạt khi mà cắt qua nó hơn là khi giá cắt qua đường trung bình động. Tỷ lệ % được sử dụng trong việc tính toán cần đủ lớn để nó bao phủ được hầu hết các dao động xung quanh đường trung bình động trong suốt khoảng thời gian đi ngang và do đó, làm giảm bớt số tín hiệu sai, tuy nhiên nó cũng cần đủ nhỏ để đưa ra tín hiệu sớm đủ để kiếm được lợi nhuận khi một xu hướng được thiết lập. Tỷ lệ % này cần được xác định thông qua kiểm nghiệm vì một khác biệt nhỏ trong tỷ lệ % cũng có thể gây ra một sự khác biệt đáng kể trong hiệu suất.
Một trong những vấn đề lớn về tỷ lệ % cố định envelopes đó là chúng không tính toán được sự thay đổi của biến động giá cơ sở. Trong suốt xu hướng đi ngang, khi mà sự biến động thường giảm thì hành động giá có thể được chứa trong một dải (band) tương đối hẹp. Tuy nhiên, khi mà xu hướng bắt đầu thì sự biến động thường được mở rộng ra và sau đó sẽ tạo ra các tín hiệu sai khi sử dụng tỷ lệ % cố định envelope. Để có thể giải quyết vấn đề này thì khái niệm về bands được điều chỉnh theo độ biến động đã phát triển.

Bands
Bands cũng là envelopes bao quanh đường trung bình động nhưng thay vì được cố định theo một kích thước thì được tính toán để điều chỉnh theo sự biến động giá quanh đường trung bình động. Do đó, chúng co lại khi giá trở nên ổn định/bình lặng và mở rộng ra khi giá trở nên biến động mạnh. Band được sử dụng phổ biến nhất đó là Bollinger Band, được đặt tên theo John Bollinger (2002).
Bollinger Band Như chúng tôi đã nhắc đến trước đó, đó là có hai cách chính để đo lường sự biến động giá. Cách thức nhất là độ lệch chuẩn quanh giá trị trung bình hoặc đường trung bình động và cách thứ hai là ATR. Bollinger Bands sử dụng độ lệch chuẩn để tính toán.
Để xây dựng Bollinger Bands, đầu tiên tính một đường trung bình động giản đơn (SMA) của giá. Bollinger sử dụng SMA bởi vì hầu hết các phép tính sử dụng độ lệch chuẩn đều sử dụng SMA. Tiếp theo là vẽ các dải (bands) bằng một số độ lệch chuẩn nhất định ở phía trên và phía dưới đường trung bình động. Ví dụ như, phép tính chuẩn của Bollinger, và phép tính thường thấy ở các dịch vụ biểu đồ công cộng đó là bắt đầu với đường trung bình động giản đơn 20 kỳ. Hai độ lệch chuẩn được thêm vào đường SMA để vẽ band phía trên (upper band). Band dưới (lower band) được xây dựng bằng cách trừ đi hai độ lệch chuẩn khỏi SMA. Các dải (Bands) này tự điều chỉnh, tự động trở nên rộng hơn trong khoảng thời gian thay đổi giá cực đoan.
Hình 7.11 hiển thị một Bollinger Band tiêu chuẩn quanh đường trung bình động 20 kỳ với bands tại hai độ lệch chuẩn. Tất nhiên cả chiều dài của đường trung bình động và số lượng độ lệch chuẩn đều có thể được điều chỉnh. Theo lý thuyết thì cộng vào hoặc trừ đi hai độ lệch chuẩn nên chiếm khoảng 95% của tổng thể chuyển động giá quanh đường trung bình động. Trong thực tế thì điều này là không toàn đúng bởi vì chuyển động giá là không cố định và không ngẫu nhiên, do đó, không theo chính xác một đặc tính thống kê nào của phép tính độ lệch chuẩn. Tuy nhiên, nó là một ước tính tốt cho phần lớn chuyển động giá. Quả thực vậy, như biểu đồ thể hiện, chuyển động giá dường như giao động giữa các dải (band) hoàn toàn thường xuyên. Chuyển động này cũng tương tự như chuyển động trong một vùng ùn tắc hoặc mô hình hình chữ nhật, ngoại trừ việc giá ở đây cũng có khuynh hướng giao động bên trong band như là xu hướng giá tăng và giảm. Điều này là bởi vì đường trung bình động sao chép xu hướng giá và điều chỉnh theo chúng khi dải (band) được mô tả giới hạn trên và giới hạn dưới bình thường xung quanh xu hướng khi sự biến động giá thay đổi.

Keltner Band Chester Keltner (1960) đã giới thiệu Keltner Band trong cuốn sách của anh ấy How to Make Money in Commodities. Để xây dựng những dải này (bands), đầu tiên cần tính "Giá điển hình" (Giá đóng cửa (C) + Giá cao nhất (H) + Giá thấp nhất (L)):3, và tính một đường trung bình động giản đơn 10 ngày (SMA10) của giá điển hình. Tiếp theo đó là tính kích thước của dải (band) bằng cách tạo ra một đường trung bình động giản đơn 10 ngày (SMA10) của giá cao nhất trừ đi giá thấp nhất hay còn gọi là phạm vi thanh bar. Sau đó dải trên (upper band) được vẽ như đường SMA10 ngày của giá điển hình cộng với đường SMA10 ngày của phạm thanh bar. Dải dưới được vẽ như SMA10 ngày của giá điển hình trừ đi SMA10 ngày của phạm vi thanh bar. (Khi việc tính toán được sắp xếp lại, nó tương tự như sử dụng ATR (Average True Range). Những dải này (bands) đôi khi được đề cập như là các dải ATR (ATR bands).
Cũng như với hầu hết các phương pháp, các nhà phân tích khác nhau ưa thích điều chỉnh/sửa đổi mô hình cơ bản để đáp ứng các nhu cầu cụ thể và các chiến lược đầu tư của họ. Mặc dù việc tính toán ban đầu của Keltner là sử dụng trung bình động 10 ngày nhưng có nhiều nhà phân tích sử dụng phương pháp này đã mở rộng trung bình động tới 20 kỳ. Việc tính toán 20 kỳ là phù hợp hơn với sự tính toán cho một Bollinger Band.
STARC Band STARC là chữ viết tắt của Stoller Average Range Channel, được phát minh bởi Manning Stoller. Hệ thống này sử dụng ATR trong 5 kỳ cộng vào và trừ đi SMA 5 kỳ của giá. Nó tạo ra một dải quanh giá mà mở rộng ra và thu hẹp lại cùng với sự thay đổi trong ATR hoặc sự biến động của giá. Giống như với Keltner Bands, chiều dài của SMA được sử dụng cho STARC có thể được điều chỉnh theo khung thời gian đầu tư hoặc giao dịch khác nhau.
Các chiến lược giao dịch sử dụng Bands và Envelopes
Phù hợp với khái niệm cơ bản về đi theo xu hướng, bands và envelopes được sử dụng để báo hiệu khi nào thì một xu hướng thay đổi xảy ra và để làm giảm đi số lần gây nhiễu khi xảy ra trong một phạm vi giao dịch hẹp. Khi nhìn vào envelopes hay bands trên một biểu đồ, nhà đầu tư sẽ nghĩ rằng có lẽ sử dụng chúng tốt nhất là để giao dịch bên trong phạm vi từ vùng giá cao nhất tới vùng giá thấp nhất của chúng và ngược lại, tương tự như các chiến lược của mô hình hình chữ nhật. Tuy nhiên, giao dịch giữa các bands là khá khó. Đầu tiên, theo định nghĩa, ngoại trừ envelopes được cố định, khi bands co hẹp lại trong một giai đoạn đi ngang, xu hướng buồn tẻ và để lại ít chỗ trống cho sự điều động theo một phương pháp tiết kiệm chi phí và với kết quả thu được lợi nhuận. Thứ hai là khi giá đột ngột dịch chuyển theo một xu hướng mới, chúng có khuynh hướng duy trì gần với band theo hướng của xu hướng và đưa ra nhiều tín hiệu thoát ra giả. Thứ ba là khi bands mở rộng, chúng cho thấy rằng biến động đã tăng lên, thường là do sự bắt đầu của một xu hướng mới và bất kỳ vị thế nào được tham gia với dự đoán tiếp theo về biến động thấp là nhanh chóng được dừng lại và thoát ra.
Do đó, các dải (bands) đã trở thành phương pháp để xác định điểm khởi đầu của xu hướng và không thường được sử dụng cho việc giao dịch trong phạm vi ở giữa của chúng. Khi cạnh bên ngoài của band bị phá vỡ, dựa trên bằng chứng được quan sát thực tế cho thấy rằng nên vào lệnh theo hướng của điểm đột phá, không khác gì điểm đột phá của đường xu hướng hoặc mức hỗ trợ hoặc kháng cự. Một điểm đột phá từ band mà chứa xấp xỉ khoảng 90% chuyển động giá trước đó cho thấy rằng xu hướng chung của chuyển động giá trước đó đã thay đổi theo hướng của điểm đột phá.
Trong hình 7.11, một điểm đột phá cho tín hiệu MUA xảy ra vào đầu tháng 11, khi giá vượt lên trên dải trên của Bollinger Band, gợi ý rằng một xu hướng tăng mạnh đang bắt đầu. Các dải (bands) trở nên hẹp hơn trong suốt tháng 10. Việc thu hẹp band này, bị gây ra bởi sự giao động giảm xuống, thường được theo sau đó bởi một sự dịch chuyển giá mạnh.
Sự khác biệt duy nhất giữa một điểm đột phá dải (band) và một điểm đột phá thông thường hơn đó là band thường linh hoạt hơn. Bởi vì đường trung bình động thường sẽ trở thành các mức hỗ trợ hoặc kháng cự, nên đường trung bình động trong phép tính Bollinger Band sau đó nên trở thành mức lệnh dừng theo xu hướng cho bất kỳ điểm vào lệnh nào mà đã thực hiện trước đây ở điểm đột phá phía trên hoặc phía dưới của band. Tính năng của đường trung bình động được sử dụng như là lệnh dừng theo xu hướng được kết hợp lại dễ dàng vào một hệ thống tận dụng bất kỳ các dạng band nào mà điều chỉnh theo sự biến động.
Cách sử dụng khác về đường trung bình động bên trong band đó là sử dụng nó như một mức hiệu chỉnh (retracement) cho lệnh vào thêm theo xu hướng được thiết lập bởi hướng của đường trung bình động và bands. Với một lệnh dừng chỉ phía dưới một chút đường trung bình động được sử dụng như là nguyên tắc mà chúng tôi đã học được từ việc thiết lập các mức lệnh dừng, khi mà giá điều chỉnh trở lại vào vùng đường trung bình động trong một xu hướng tăng mạnh, một lệnh vào thêm (lệnh bổ sung) có thể được đặt tại nơi hiệu chỉnh (retracement) trong band được dự báo sẽ dừng lại.
Trong việc kiểm tra các điểm đột phá band thì dường như khoảng thời gian càng dài thì hệ thống càng có được lợi nhuận hơn. Biến động rất ngắn hạn, bởi vì nó có tỷ lệ biến động mạnh hơn nên gây ra nhiều điểm đột phá giả. Các khoảng thời gian dài hạn hơn thì ít biến động hơn cho mỗi khoảng thời gian xuất hiện để duy trì theo xu hướng cho các khoảng thời gian dài hơn và không bị gây nhiễu nhiều như xu hướng ngắn hạn. Hầu hết các hệ thống đi theo xu hướng đều thu được lợi nhuận từ dài hạn, và như các nhà giao dịch ngắn hạn đã học được, khả năng của giá để dao động mạnh là lớn hơn khi nó được làm mượt qua các khoảng thời gian dài hơn. Do đó, những tín hiệu gây nhiễu vốn có trong dữ liệu ngắn hạn sẽ trở nên được giảm đi qua các khoảng thời gian dài hơn, và các hệ thống đi theo xu hướng theo dõi các xu hướng dài hơn có ít các tín hiệu không thu được lợi nhuận hơn. Các dải (bands) thành công hơn trong thị trường đang có xu hướng và do đó, phù hợp hơn cho thị trường hàng hóa hơn là thị trường chứng khoán.
Cách sử dụng khác cho các dải (bands) đó là quan sát biến động giá. Biến động thấp nói chung là được liên kết với các giai đoạn đi ngang tới các xu hướng hơi nghiêng - ở những nơi này thường gây nhiễu và thất bại của các mô hình. Biến động cao nói chung là được liên kết với một xu hướng mạnh, xu hướng tăng hoặc giảm. Bằng cách quan sát biến động, đặc biệt từ một sự tăng lên trong biến động, nhà phân tích có một manh mối về một sự thay đổi trong xu hướng sắp đến. Để quan sát biến động, nhà đầu tư nên lấy khoảng giữa dải cao nhất và dải thấp nhất và vẽ nó như một đường phía dưới hành động giá. Bollinger gọi đường này là một chỉ báo Bandwidth Indicator. Một sự tăng lên của đường bandwidth, sẽ dẫn tới sự biến động tăng lên, có thể được liên kết trực tiếp với hành động giá. Bất kỳ điểm đột phá nào từ một mô hình, các mức hỗ trợ hoặc kháng cự, đường xu hướng hoặc đường trung bình động đều có thể được xác nhận bởi sự thay đổi trong biến động. Nếu như biến động không tăng lên khi giá đột phá thì có khả năng thiên về điểm đột phá này là giả. Đo dó, biến động có thể được sử dụng như là sự xác nhận cho sự thay đổi xu hướng, hoặc nó có thể được sử dụng như là một cảnh báo về mọi thứ sắp thay đổi. Cách sử dụng về bands này thành công hơn khi được kết hợp với các phương pháp khác để xác định một sự thay đổi xu hướng thực sự.
Kênh (Channel)
Trong khi đang thảo luận về các đường xu hướng, chúng tôi đã ghi nhận được một đường có thể thường được vẽ song song với đường xu hướng mà bao quát được hành động giá trong cái được gọi là một kênh (channel). Cho các mục đích hiện nay, thì sẽ thay đổi một chút về định nghĩa này bằng cách nới lỏng yêu cầu về đường song song.
Các kênh được mô tả như một cái gì đó đơn giản hơn hơn là hai đường song song. Chúng tôi đã đề cập đến phương pháp kênh Donchain đã rất thành công, thậm chí mặc dù nó đã được biết đến rộng rãi từ nhiều năm. Các tín hiệu xuất hiện với kênh Donchian khi giá đột phá lên trên hoặc xuống dưới mức cao nhất hoặc thấp nhất xảy ra trong một số khoảng thời gian đã qua (xem hình 7.12). Phương pháp này không yêu cầu phải xây dựng một đường xu hướng; mà chỉ yêu cầu duy nhất đó là ghi lại các mức giá cao nhất và thấp nhất trong một số khoảng thời gian đã qua. Trong trường hợp của phương pháp kênh Donchian thì khoảng thời gian là 4 tuần (20 ngày), và quy tắc là mua khi giá đã vượt quá mức cao nhất trong 4 tuần qua và bán khi giá giảm xuống dưới mức thấp nhất trong 4 tuần qua. Những hệ thống như vậy thường là những hệ thống "dừng và đảo ngược - stop and reverse" luôn có trên thị trường, cả mua hoặc bán khống. Như có thể được hình dung thì các hệ thống kênh được sử dụng thường xuyên hơn trong các thị trường hàng hóa nơi mà các vị thế mua vào và bán khống là dễ dàng và giá có khuynh hướng hình thành xu hướng dài hơn nhiều.

Kết luận
Phương pháp cơ bản của nhà phân tích kỹ thuật để kiếm được lợi nhuận đó là bằng cách nhận ra một xu hướng trong giá và đi theo xu hướng đó. Đôi khi, sự biến động hàng ngày trong giá cả làm cho nó khá khó khăn để nhà phân tích có thể xem được xu hướng cơ sở cơ bản trong giá. Đường trung bình động là những công cụ được sử dụng để làm mượt dữ liệu không ổn định này, làm cho nó dễ dàng hơn để nhận thấy xu hướng cơ sở thực sự.
Mặc dù có đa dạng các phương pháp để tính một đường trung bình động nhưng ý tưởng cơ bản đó là đưa ra một bản tóm tắt về lịch sử giá trung bình hoặc giá bình thường của một giai đoạn cụ thể . Vì đường trung bình động được dựa vào lịch sử giá, nên theo tự nhiên, thì chúng sẽ là một chỉ báo chậm về xu hướng. Khoảng thời gian được bao phủ bởi đường trung bình động càng ngắn thì độ trễ sẽ càng ít hơn. Tuy nhiên, sử dụng khoảng thời gian ngắn hơn cũng dẫn tới nhiều tín hiệu giả hơn. Như thường lệ thì khi lựa chọn hệ thống trung bình động, sẽ có sự đánh đổi giữa việc nhận diện điểm đảo chiều xu hướng sớm và sự chắc chắn về điểm đảo chiều xu hướng. Sử dụng envelopes, bands và channels bao quanh đường trung bình động có thể tối thiểu hóa số lượng các tín hiệu giả bằng cách cung cấp một phạm vi chuyển động giá lớn hơn trước khi một tín hiệu được kích hoạt.
Ô 7.1 đưa ra một danh sách các nguyên tắc cơ bản mà nhà phân tích kỹ thuật nên ghi nhớ
Chúng tôi đã đề cập rất nhiều tài liệu liên quan đến xu hướng. Dưới đây là một số điểm chính cần ghi nhớ khi đầu tư:
- Đi theo xu hướng là cách sử dụng phân tích kỹ thuật có lợi nhuận tốt nhất
- Xu hướng có thể được xác định bằng đường xu hướng, đường trung bình động, và các mức giá cao thấp tương đối.
- Luôn chọn một chứng khoán mà xu hướng của nó là tăng hoặc giảm. Xu hướng đi ngang hoặc ngẫu nhiên thường không thu được lợi nhuận.
- Hãy chú ý tới xu hướng của giai đoạn dài hơn tiếp theo và xu hướng của giai đoạn ngắn hơn so với xu hướng đang được giao dịch.
- Luôn luôn giao dịch cùng với xu hướng:
+ "Trend is your friend" - Xu hướng là bạn của bạn.
+ "Don't buck the trend" - Đừng bao giờ đi ngược lại xu hướng.
- Các điểm đột phá khỏi các mức hỗ trợ hoặc kháng cự, các mô hình, hoặc bands thường báo hiệu một sự thay đổi trong xu hướng.
- Một đường xu hướng bị phá vỡ thì ít nhất đó là một cảnh báo.
- Xu hướng càng dài thì càng quan trọng khi bị phá vỡ.
- Xác nhận bất kỳ điểm phá vỡ nào với bằng những chứng khác, đặc biệt là khi tham gia vào một vị thế. Trong việc thoát ra thì sự xác nhận là không quan trọng bằng.
- Luôn sử dụng lệnh dừng - lệnh dừng bảo vệ và lệnh dừng theo xu hướng.
- Đừng bán các vị thế có lợi nhuận quá sớm; chỉ cần tiếp tục đi theo với lệnh dừng.
Xong chương 7 - Xem tiếp chương 8 ở bài khác. Hoặc xem lại chương 1,2,3,4,5,6 ở bài khác.